Acid hyaluronic là gì? Các công bố khoa học về Acid hyaluronic

Acid hyaluronic (hay còn gọi là sodium hyaluronate) là một loại chất gel trong suốt, không màu, không mùi, tự nhiên có trong cơ thể người, đặc biệt là trong da,...

Acid hyaluronic (hay còn gọi là sodium hyaluronate) là một loại chất gel trong suốt, không màu, không mùi, tự nhiên có trong cơ thể người, đặc biệt là trong da, mắt và nước tiểu. Nó có khả năng giữ nước và duy trì độ ẩm, góp phần vào sự mềm mịn và đàn hồi của da. Acid hyaluronic cũng được sử dụng trong các sản phẩm chăm sóc da và làm đẹp như kem dưỡng, serum, kem chống nắng, filler hay thuốc chống lão hóa da, để cung cấp độ ẩm, làm mờ nếp nhăn và tạo độ đàn hồi cho da.
Acid hyaluronic là một loại polysaccharide có cấu trúc đơn giản gồm các đơn vị đường và muối natri. Nó được tạo thành từ một chuỗi dài các đơn vị đường glucozamin và axit gluronic, được liên kết bởi các liên kết beta-1,3 và beta-1,4. Có thể tìm thấy acid hyaluronic trong các mô và cơ quan trong cơ thể, như da, mắt, sụn, sương mắt, nước tiểu và dịch não tủy.

Trong da, acid hyaluronic chủ yếu có vai trò giữ nước và duy trì độ ẩm. Nó có khả năng giữ nước lên đến 1000 lần trọng lượng của nó, tạo ra lớp màng ẩm trên da và bảo vệ nó khỏi mất nước. Điều này giúp da trở nên mềm mịn, mịn màng và đàn hồi.

Tuy nhiên, khi tuổi tác và tác động của môi trường, lượng acid hyaluronic sản xuất tự nhiên trong cơ thể giảm đi. Điều này dẫn đến sự mất nước và làm giảm độ mềm mịn và đàn hồi của da, góp phần vào sự xuất hiện của nếp nhăn và lão hóa da.

Vì những lợi ích vượt trội của acid hyaluronic đối với làn da, nó được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp làm đẹp. Có nhiều dạng sản phẩm chứa acid hyaluronic như kem dưỡng, serum, kem chống nắng và các sản phẩm chống lão hóa da. Ngoài ra, acid hyaluronic cũng được sử dụng như một chất làm đầy hoặc "filler" trong phẫu thuật thẩm mỹ để làm đầy các vết nhăn, tạo đường viền môi hoặc tăng kích thước môi, tái tạo cấu trúc khuôn mặt và cải thiện điểm tự nhiên của khuôn mặt.
Acid hyaluronic có khối lượng phân tử lớn và cấu trúc nhẹ nhàng, nó có khả năng thẩm thấu vào da một cách dễ dàng và nhanh chóng. Khi được áp dụng lên da, nó có khả năng giữ nước tuyệt vời, tạo thành một lớp màng bảo vệ để ngăn ngừa mất nước và cung cấp độ ẩm cho da trong thời gian dài. Điều này giúp da trở nên mềm mại, căng bóng và sáng mịn.

Ngoài ra, acid hyaluronic còn có khả năng cải thiện độ đàn hồi của da bằng cách tạo độ đàn hồi và độ căng của lớp biểu bì. Nó làm tăng tính đàn hồi và độ đàn hồi tự nhiên của da, giúp giảm sự xuất hiện của nếp nhăn và vết chân chim.

Acid hyaluronic cũng có khả năng làm dịu và làm lành da bị kích ứng hoặc tổn thương. Với tính chất làm dịu tự nhiên, nó giúp làm giảm viêm nhiễm, mẩn đỏ và sưng tấy trên da. Ngoài ra, nó còn giúp tái tạo và phục hồi mô da bị hư tổn, cải thiện tổ chức và kích thích quá trình tái tạo da.

Acid hyaluronic có thể được sử dụng cho mọi loại da, bao gồm cả da nhạy cảm. Nó không gây kích ứng và thường được coi là an toàn cho da. Tuy nhiên, nhất định cần kiểm tra thành phần và kiểm tra dị ứng trước khi sử dụng sản phẩm chứa acid hyaluronic.

Sản phẩm chứa acid hyaluronic có thể có nhiều dạng khác nhau, bao gồm kem dưỡng, serum, kem chống nắng, mặt nạ và kem chống lão hóa da. Acid hyaluronic cũng được sử dụng rộng rãi trong các quy trình thẩm mỹ như filler hay tái tạo da, để cung cấp độ ẩm và tái tạo cấu trúc mô da.

Trong tự nhiên, acid hyaluronic tồn tại trong cơ thể người trong một thời gian ngắn rồi bị tự nhiên phân hủy. Tuy nhiên, các công nghệ sản xuất hiện đại cho phép sản xuất acid hyaluronic tổng hợp, có khả năng kéo dài hiệu quả của nó khi được áp dụng lên da.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "acid hyaluronic":

ISOLATION OF THE ALDOBIONIC ACID OF UMBILICAL CORD HYALURONIC ACID
Journal of Biological Chemistry - Tập 205 Số 1 - Trang 205-211 - 1953
Isolation of a Crystalline Disaccharide, Hyalobiuronic Acid, from Hyaluronic Acid
Nature - Tập 168 Số 4284 - Trang 996-997 - 1951
So sánh ngẫu nhiên, mù đôi giữa hỗn hợp cố định của polynucleotide và acid hyaluronic tiêm khớp đối với acid hyaluronic đơn độc trong điều trị viêm xương khớp gối: theo dõi hai năm
BMC Musculoskeletal Disorders - Tập 22 Số 1 - 2021
Thông tin tóm tắtBối cảnhPhân tích tạm thời trong năm đầu của nghiên cứu kéo dài hai năm này cho thấy các liệu pháp tiêm khớp với polynucleotide có nguồn gốc tự nhiên tinh chế cao và acid hyaluronic (HA) dưới dạng hỗn hợp cố định (PNHA) có thể cải thiện chức năng khớp và giảm đau khớp hiệu quả hơn so với chỉ sử dụng HA ở bệnh nhân mắc viêm xương khớp (OA) đầu gối. Mục đích của phân tích năm thứ hai được mô tả ở đây là để kiểm chứng liệu các kết quả tạm thời của năm đầu có duy trì suốt thời gian hai năm hay không.Phương phápThử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mù đôi, có kiểm soát HA trong 100 bệnh nhân OA đầu gối (98 ngẫu nhiên, 79 hoàn thành nghiên cứu) tại một đơn vị điều trị cấp ba có chuyên môn cao. Sự khác biệt về hiệu quả được giả định giữa PNHA và HA cho ước lượng cỡ mẫu ban đầu là 20%. Chu kỳ điều trị: ba lần tiêm khớp gối của PNHA hoặc HA, tại điểm chuẩn và hàng tuần trong hai tuần. Các đánh giá: điểm số Western Ontario và McMaster Universities (WOMAC) và điểm Knee Society Score (KSS) lần lượt là các điểm cuối chính và phụ, được đánh giá tại điểm chuẩn và sau 2, 6, 12 và 24 tháng; nồng độ chất trung gian trong dịch khớp (tại điểm chuẩn và cuối chu kỳ điều trị). Tác dụng phụ được điều tra trong mỗi lần kiểm tra. Phân tích thống kê: kiểm tra Kruskal-Wallis cho các mẫu độc lập (phân tích phương sai một chiều phi tham số) sau khi chỉnh sửa trung bình theo tuổi, chỉ số khối cơ thể và độ Kellgren-Lawrence. Nếu có ý nghĩa, so sánh nhiều cặp đôi Sidak sau đó.Kết quảĐiểm tổng KSS và mục đau KSS: cải thiện đáng kể ở cả hai nhóm, với cải thiện đau đáng kể hơn ở bệnh nhân được điều trị với PNHA (giảm 2 điểm) so với HA (giảm 1 điểm). Cả hai nhóm đều trải qua sự giảm điểm tổng WOMAC đáng kể trong thời gian dài: nổi trội hơn ở bệnh nhân điều trị bằng PNHA sau 24 tháng với sự khác biệt ổn định 16% nghiêng về PNHA trong tiểu mục đau WOMAC. Không có sự kiện có ý nghĩa lâm sàng nào trong cả hai nhóm.Kết luậnKết quả của nghiên cứu hai năm xác nhận rằng một chu kỳ điều trị ngắn bằng polynucleotide (tính năng bổ sung độ nhớt lâu dài, kích hoạt tế bào sụn, tính giảm đau) kết hợp cố định với acid hyaluronic có trọng lượng phân tử cao hiệu quả hơn trong việc cải thiện chức năng và giảm đau cho bệnh nhân OA đầu gối so với chỉ dùng acid hyaluronic. PNHA có thể là sự lựa chọn cho việc bổ sung độ nhớt cho bệnh nhân OA đầu gối có cơn đau dai dẳng và bệnh tiến triển.Đăng ký thử nghiệmNCT02417610.Đăng ký, 15/04/2015.Cơ sở dữ liệu ClinicalTrials.gov.
#Polynucleotides #Hyaluronic acid #Knee osteoarthritis #Randomised clinical trial #Visco-supplementation #Chondrocyte activation #Pain relief #Long-term efficacy
SO SÁNH KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ CỦA LIỆU PHÁP TIÊM NỘI KHỚP BẰNG ACID HYALURONIC REGENFLEX BIO - PLUS SO VỚI GO - ON TRONG ĐIỀU TRỊ THOÁI HÓA KHỚP GỐI NGUYÊN PHÁT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 506 Số 2 - 2021
Thoái hóa khớp là bệnh lý thoái hóa khớp mạn tính có đặc điểm là đau khớp và hạn chế chức năng khớp tiến triển. Tiêm hyaluronic acid (HA) nội khớp, trong đó, tiêm nội khớp với chế phẩm Regenflex Bio-Plus (RBP) với 1 lần/1 đợt điều trị và Go – on với 3-5 lần/1 đợt điều trị là liệu pháp điều trị đã được chứng minh có tác dụng giảm đau và cải thiện chức năng vận động. Mục tiêu: So sánh kết quả điều trị của liệu pháp tiêm nội khớp bằng acid hyaluronic Regenflex Bio-plus so với Go – on và các tác dụng không mong muốn của Regenflex Bio-plus trong điều trị thoái hóa khớp gối nguyên phát. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng có đối chứng theo dõi trong 3 tháng trên 63 bệnh nhân thoái hóa khớp gối nguyên phát chia làm 2 nhóm: 37 bệnh nhân được tiêm RBP và 26 bệnh nhân được tiêm Go-on, cả 2 nhóm được phối hợp thuốc CVKS và SYSADOA. Kết quả: Tại tháng thứ 2 và thứ 3 sau can thiệp, nhóm tiêm nội khớp RBP có mức độ cải thiện thang điểm VAS và WOMAC tốt hơn so với nhóm tiêm Go – on có ý nghĩa thống kê. Điểm VAS trung bình giảm từ 5,41 xuống 2,7 điểm, WOMAC trung bình giảm từ 30,92 xuống 12,13 ở nhóm RBP, trong khi đó ở nhóm bệnh nhân tiêm Go – on, điểm VAS giảm từ 5,19 xuống 3,31; WOMAC trung bình giảm từ 28 xuống 16,26, thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm tiêm RBP. Một số phản ứng không mong muốn của nhóm tiêm RBP gồm: đau, tức khớp gối sau tiêm, đôi khi có chóng mặt. Kết luận: Tiêm nội khớp bằng RBP có hiệu quả và đạt được sự hài lòng của bệnh nhân về liệu trình điều trị tốt hơn so với Go – on.
#Acid hyaluronic #Regenflex Bio – plus #Go – on #Thoái hóa khớp gối
4. Loạt ca lâm sàng: Áp xe phần mềm khởi phát muộn sau tiêm chất làm đầy Acid Hyaluronic
Tiêm chất làm đầy Acid Hyaluronic vùng mặt tuy là kỹ thuật ít xâm lấn nhưng nhiều biến chứng đã được ghi nhận trên lâm sàng. Tác giả giới thiệu 3 ca lâm sàng bị áp xe khởi phát chậm sau khi tiêm chất là đầy vùng mặt ở SPA. Thời gian khởi phát nhiễm trùng từ 1 - 3 năm sau tiêm. Vi khuẩn cấy từ ổ áp xe là P. aeruginosa hoặc S. aureus, đều nhạy với nhiều loại kháng sinh. Các bệnh nhân được điều trị hiệu quả bằng trích rạch áp xe và dùng kháng sinh toàn thân. Nguyên nhân gây ra áp xe muộn ở vùng được tiêm chất làm đầy chưa thực sự rõ ràng. Giả thuyết sự hình thành bao biofilm giữ vi khuẩn không tiếp xúc với mô và nằm im trong thời gian dài liên quan đến chất làm đầy không rõ nguồn gốc hoặc chưa đảm bảo vô trùng trong kỹ thuật tiêm hoặc nhiễm trực tiếp từ da do chất làm đầy được tiêm sát các nang lông và tuyến bã được cho là nguyên nhân khởi phát áp xe muộn. Dẫn lưu và kháng sinh toàn thân là giải pháp hiệu quả cho loại biến chứng này.
#Áp xe #chất làm đầy #acid hyaluronic #khởi phát muộn #màng sinh học
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THOÁI HÓA KHỚP GỐI NGUYÊN PHÁT BẰNG LIỆU PHÁP TIÊM NỘI KHỚP ACID HYALURONIC KẾT HỢP SORBITOL
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá kết quả và tác dụng không mong muốn của liệu pháp tiêm nội khớp acid hyaluronic kết hợp sorbitoltrong điều trị thoái hóa khớp gối nguyên phát. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp, có nhóm chứng, theo dõi dọc trên 101 bệnh nhân với 151 khớp gối thoái hóa giai đoạn II, III theo Kellgren và Lawrence, chia làm 2 nhóm: nhóm can thiệp được tiêm 1 ống Synolis VA 80/160mg vào khớp gối tổn thương, nhóm chứng được điều trị bằng thuốc đường uống Mobic, Viatril S. Kết quả điều trị: Điểm VAS, WOMAC, biên độ gấp gối ở nhóm can thiệp có sự cải thiện rõ rệt bắt đầu từ tuần thứ 4 và tiếp tục cho đến tuần 12, tốt hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Sau 12 tuần điều trị, điểm VAS giảm từ 5,28 xuống 1,24, tỷ lệ đau vừa/nặng giảm từ 100% xuống 6,8%,có 39,2% không đau, điểm WOMAC chung giảm từ 36,46 xuống 12,27, biên độ gấp khớp gối tăng them 19,46 ± 11,84 độ, tỷ lệ hài lòng và rất hài lòng 92,3% (p<0,01). Không gặp tác dụng không mong muốn nghiêm trọng, 28,4% căng tức khớp gối sau tiêm,12,2% đau sau tiêm trong vòng 12-24 giờ, 4,1% tràn dịch khớp. Kết luận: Liệu pháp tiêm nội khớp acid hyaluronic kết hợp sorbitolcó tác dụng giảm đau nhanh, cải thiện chức năng vận động của khớp gối tốt hơn nhóm chứng và có tính an toàn.
#Thoái hóa khớp gối nguyên phát #Synolis VA #acid hyaluronic #sorbitol
Tổng số: 73   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 8